Đây là một kết quả nghiên cứu đã được công bố bởi các bác sĩ tại Bệnh viện Bưu Điện Hà Nội. Bộ kit được sử dụng là bộ kit tách chiết huyết tương giàu tiểu cầu (5PRP) của nhãn hàng Regenmedlab-Viện Tế bào gốc.
PRP tự thân đã được đề xuất nhằm cải thiện kết quả của các quy trình điều trị khác nhau. Tiêm PRP vào tử cung ngay trước khi ET được đề xuất để cải thiện kết quả ET ở bệnh nhân mắc RIF. Tiểu cầu trong PRP sẽ được kích hoạt thông qua các con đường khác nhau để giải phóng các yếu tố tăng trưởng và cytokine.
Để trả lời cho câu hỏi “Huyết tương giàu tiểu cầu tự thân (PRP) có cải thiện kết quả chuyển phôi ở bệnh nhân mỏng nội mạc tử cung hoặc bệnh nhân thất bại làm tổ (RIF) không?”, trong nghiên cứu này, các bác sĩ đã sử dụng bộ dụng cụ chiết 5PRP, sử dụng phương pháp kích hoạt cơ học/phá vỡ tiểu cầu để truyền/tiêm vào tử cung của những bệnh nhân có tiên lượng xấu.
111 bệnh nhân IVF (độ tuổi trung bình là 35,6 ± 6,1) có nội mạc tử cung mỏng/sẹo trước đó có ít nhất một chu kỳ ET bị hủy (nhóm 1) hoặc những bệnh nhân có ít nhất hai lần cấy ghép ET thất bại (nhóm 2) được lựa chọn cho nghiên cứu.
20 mL máu được rút ra từ tĩnh mạch. Sau khi ly tâm, 0,5 mL PRP được đo và tính toán để có nồng độ tiểu cầu tăng gấp 8–12 lần. Sau đó, PRP được lọc qua bộ lọc để phá vỡ tiểu cầu giải phóng các yếu tố tăng trưởng/cytokine. 0,5 mL PRP vào tử cung vào ngày 7/8 của chu kỳ ET, cả hai nhóm đều được tiêm 0,5 mL PRP vào tử cung hai ngày (40–48 giờ) trước ET.
* Kết quả cho thấy
+ Nhóm 1 (31 bệnh nhân): 5 bệnh nhân không cải thiện nội mạc tử cung sau đó hủy chu kỳ ET, 1 bệnh nhân không có phôi nang để chuyển và 25 bệnh nhân có nội mạc tử cung dày ít nhất 7 mm trước khi ET và ET (100 ET đông lạnh) được tiếp tục. Một cặp vợ chồng không thể liên lạc được. Trong số 24 cặp vợ chồng, có 13 cặp mang thai sinh hóa (54,2%) và 11 cặp mang thai lâm sàng (44,0%).
+ Nhóm 2 ( 99 bệnh nhân): có 80 bệnh nhân, một trong số họ không có phôi để chuyển. 37/79 trường hợp chuyển phôi có thai sinh hóa (46,8%) và 44,3% có thai lâm sàng. Không có biến chứng nào được ghi nhận. Kết quả cho thấy một số bệnh nhân thành công đã có hơn 7 lần điều trị ngoại khoa không thành công trước đó. Để tham khảo, năm 2020 phòng khám của bệnh viện có tổng cộng 4260 ET, tỷ lệ có thai lâm sàng là 60,1%, độ tuổi trung bình là 31,82 tuổi.
* Hạn chế, lý do cần thận trọng
Mỗi trường hợp trong giai đoạn 2 của nghiên cứu này đều có tiền sử bệnh lý về khả năng sinh sản phức tạp nên không thể chọn nhóm đối chứng. Nghiên cứu này chỉ mang tính mô tả. Quy mô của mỗi nhóm tương đối nhỏ đòi hỏi phải ghi dữ liệu liên tục.
* Ý nghĩa rộng hơn của những phát hiện này: Nghiên cứu này ủng hộ ý tưởng rằng các cytokine và các yếu tố tăng trưởng trong PRP có thể giúp chuẩn bị nội mạc tử cung cho ET một cách an toàn và hiệu quả.
* Câu trả lời tóm tắt
Truyền PRP tự thân vào tử cung có thể cải thiện kết quả chuyển phôi (ET) ở nhóm RIF và nhóm nội mạc tử cung mỏng/sẹo.
Là trung tâm Trung tâm Hỗ trợ sinh sản đầu tiên được cấp phép chính thức trong việc nghiên cứu và ứng dụng huyết tương giàu tiểu cầu tự thân để cải thiện độ dày của niêm mạc tử cung, tăng tỷ lệ thành công trong thụ tinh ống nghiệm; IVF Tâm Anh kỳ vọng sẽ tiếp tục vị thế dẫn đầu cũng như tạo đột phá về tỷ lệ IVF thành công trong năm 2020. Niềm ước mơ của rất nhiều bệnh nhân vô sinh hiếm muộn sẽ sớm trở thành sự thật tại IVF Tâm Anh…
Niêm mạc tử cung là gì?
Niêm mạc tử cung – hay còn được gọi là nội mạc tử cung – là lớp phủ toàn bộ bề mặt phía trong của tử cung, có cấu tạo gồm 2 phần là lớp đáy và lớp nông. Lớp đáy – hay nội mạc căn bản – là các tế bào mô trụ tuyến và mô đêm, không chịu nhiều biến đổi của chu kỳ kinh nguyệt. Lớp nông – hay nội mạc tuyến – chịu sự tác động lớn trong thời kỳ kinh nguyệt.
Niêm mạc tử cung đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với quá trình thụ thai và mang thai ở người phụ nữ. Niêm mạc tử cung quá dày hoặc quá mỏng có thể là nguyên nhân gây khó thụ thai, hiếm muộn ở nữ giới.
Lớp niêm mạc tử cung dưới sự tác động của hormone sinh dục nữ sẽ trở nên dày lên tùy theo từng thời điểm cụ thể trong tháng, phụ thuộc vào chu kỳ kinh nguyệt của người phụ nữ.
Niêm mạc tử cung dày lên khi tới giai đoạn chuẩn bị để cho trứng đã thụ tinh làm tổ. Nếu như trứng không được thụ tinh thì lớp niêm mạc này sẽ bị bong tróc và được đẩy ra ngoài cơ thể và hình thành hiện tượng hành kinh ở phụ nữ.
Ảnh hưởng của niêm mạc tử cung mỏng tới khả năng mang thai
Để có được một chu kỳ thụ tinh ống nghiệm thành công, bên cạnh chất lượng của phôi thì việc chuẩn bị các điều kiện của người mẹ để đảm bảo việc làm tổ, phát triển phôi là hết sức quan trọng. Một trong những điều kiện này là yêu cầu độ dày niêm mạc tử cung phù hợp. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng nếu niêm mạc tử cung tại thời điểm chuyển phôi mỏng hơn 7mm thì tỷ lệ thất bại sẽ rất cao. Ngay cả khi thai nhi đã làm tổ thì khả năng giữ lại thai trong tử cung trong suốt quá trình mang thai vẫn rất khó khăn bởi lớp niêm mạc tử cung mỏng quá mức sẽ không đủ khả năng giữ phôi thai lại. Hậu quả là dẫn tới nguy cơ trạng sảy thai hoặc thai lưu.
Niêm mạc tử cung mỏng là do quá trình phát triển của niêm mạc tử cung bị suy giảm, có thể do nhiều yếu tố mà phổ biến là do viêm nhiễm hay do hậu quả của quá trình điều trị liên quan đến tử cung. Đó có thể do hậu quả của phẫu thuật như nạo phá thai nhiều lần, cắt bỏ polyp, phẫu thuật nội soi tử cung cũng như liệu pháp sử dụng thuốc không hợp lý, hoặc cũng có thể do cấu trúc niêm mạc tử cung của bệnh nhân bị mỏng do yếu tố bẩm sinh.
Chính vì vậy, để cải thiện độ dày của niêm mạc tử cung, nhiều liệu pháp đã được áp dụng tại các đơn vị Hỗ trợ sinh sản tại Việt Nam để giúp niêm mạc tử cung đạt độ dày “lý tưởng” như theo dõi chu kỳ tự nhiên, sử dụng thuốc nội tiết ngoại sinh, kích thích buồng trứng…Tuy nhiên, vẫn có một số trường hợp niêm mạc tử cung không đáp ứng hoặc đáp ứng kém với các liệu pháp trên dẫn tới niêm mạc tử cung phát triển không đầy đủ. Chính vì vậy, việc phát triển các kỹ thuật mới, liệu pháp mới để điều trị hiệu quả cho những bệnh nhân này là hết sức cần thiết.
PGS.TS.BS Lê Hoàng – Giám đốc Trung tâm hỗ trợ sinh sản BVĐK Tâm Anh, Hà Nội đang thực hiện một trong những thủ thuật trong điều trị vô sinh hiếm muộn cho người bệnh
Huyết tương giàu tiểu cầu tự thân – vũ khí mới giúp cải thiện độ dày niêm mạc tử cung
Theo định nghĩa, huyết tương giàu tiểu cầu là huyết tương có lượng tiểu cầu nhiều gấp 2-10 lần so với huyết tương bình thường và có nhiều yếu tố tăng trưởng và cytokin. Huyết tương giàu tiểu cầu thu được thông qua quá trình lấy máu tự thân, xử lý mẫu máu, quay ly tâm và thu được. Nghiên cứu cho thấy rằng tiểu cầu là một nguồn phong phú các yếu tố tăng trưởng và cytokine mà có thể ảnh hưởng đến phản ứng viêm, mất máu sau phẫu thuật, nhiễm trùng, tạo xương, lành hóa vết thương, vết rách cơ và các mô mềm. PRP không chỉ thúc đẩy việc loại bỏ các mô bị thoái hóa và hoại tử, mà còn kích thích sự tái tạo mô và lành hóa.
Việc sử dụng huyết tương giàu tiểu cầu (PRP) tự thân để điều trị thiểu sản niêm mạc tử cung đã được thử nghiệm lâm sàng thành công ở nhiều quốc gia.
Một thử nghiệm tại Iran vào năm 2017, do tiến sĩ Zadehmodarres và cộng sự đã tuyển chọn 10 bệnh nhân có tiền sử phát triển NMTC không đầy đủ trong chu kỳ chuyển phôi đông lạnh để thực hiện nghiên cứu và người vợ đã được truyền 0,5 ml PRP 2 lần trước khi tiến hành chuyển phôi. Kết quả là tất cả bệnh nhân được truyền PRP đều tăng độ dày NMTC, trong đó có 5 người mang thai và 4/5 người mang thai bình thường.
Các quốc gia khác như Ý, Iran, Trung Quốc, Ấn Độ, Venezuela cũng đã sử dụng liệu pháp này và cho thấy hiệu quả và an toàn do PRP tự thân được điều chế từ chính máu của bệnh nhân và được bơm truyền lại cho chính họ vì vậy đây là chế phẩm sinh học tương thích nhất với cơ thể người bệnh và tránh được tình trạng thải ghép.
Huyết tương giàu tiểu cầu (PRP) tự thân là chế phẩm sinh học tương thích nhất với cơ thể người bệnh và tránh được tình trạng thải ghép
Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh, Hà Nội là đơn vị đầu tiên chính thức được Bộ Y tế cấp phép nghiên cứu sử dụng huyết tương giàu tiểu cầu tự thân trong điều trị nội mạc tử cung mỏng ở các bệnh nhân thụ tinh trong ống nghiệm. Do đó, Trung tâm Hỗ trợ sinh sản Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh cũng trở thành đơn vị hỗ trợ sinh sản nghiên cứu tiên phong và mang đến một phương pháp điều trị mới ở Việt Nam cho những người thụ tinh trong ống nghiệm nhưng có nguy cơ thai khó làm tổ do nội mạc tử cung mỏng hay giảm khả năng chấp nhận của nội mạc tử cung.
Việc ứng dụng huyết tương giàu tiểu cầu tự thân trong điều trị vô sinh hiếm muộn được triển khai và phối hợp chặt chẽ giữa hai Trung tâm mũi nhọn của bệnh viện là Trung tâm Hỗ trợ sinh sản và Trung tâm Tế bào gốc, giúp việc xử lý mẫu máu để thu được huyết tương giàu tiểu cầu tự thân của người bệnh được xử lý một cách liền mạch trong công nghệ tiên tiến nhất và trở thành chế phẩm sinh học có chỉ tiêu chất lượng cao và an toàn khi sử dụng. Bên cạnh đó, với quy trình quản lý chất lượng nghiêm ngặt, huyết tương giàu tiểu cầu tự thân khi sử dụng trong điều trị vô sinh hiếm muộn tại Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh bảo đảm đáp ứng được tất cả các tiêu chí khắt khe trong Y tế.
PGS.TS.BS Lê Hoàng – Giám đốc Trung tâm Hỗ trợ sinh sản Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh – cho biết: “Sử dụng phương pháp dùng huyết tương giàu tiểu cầu tự thân là một bước tiến rất quan trọng trong việc điều trị vô sinh hiếm muộn, vì đây là kỹ thuật mới mà thế giới mới đưa vào sử dụng trong thời gian gần đây. Để được Bộ Y tế cấp phép chính thức triển khai tại Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh là kết quả của một sự chuẩn bị lâu dài từ trang thiết bị máy móc tới nguồn nhân lực. Thật may mắn vì tại BVĐK Tâm Anh đã có Trung tâm Tế bào gốc đã hỗ trợ chúng tôi tự chủ được toàn bộ quá trình nghiên cứu và ứng dụng kỹ thuật mới vào thực tiễn điều trị. Đây không còn là vấn đề của riêng Trung tâm Hỗ trợ sinh sản nữa, mà phải có sự kết hợp của nhiều chuyên khoa khác nhau tại BVĐK Tâm Anh, phối hợp trong một quy trình khép kín, qua đó rút ngắn được thời gian, đảm bảo về chất lượng và tiết kiệm được chi phí, thời gian cho người bệnh.”
Với việc đưa vào ứng dụng huyết tương giàu tiểu cầu tự thân trong điều trị vô sinh hiếm muộn để cải thiện độ dày của niêm mạc tử cung, IVFTA hiện là trung tâm hỗ trợ sinh sản hàng đầu Việt Nam có đầy đủ nhất các phương tiện kỹ thuật hiện đại, các phác đồ điều trị hiệu quả với sự tham gia điều trị trực tiếp của các chuyên gia giàu kinh nghiệm, từ đó giúp trung tâm luôn giữ ổn định và liên tục nâng cao tỷ lệ thành công trong IVF.
Quy trình thực hiện bơm huyết tương giàu tiểu cầu tự thân
Trường hợp nào nên sử dụng kỹ thuật bơm huyết tương giàu tiểu cầu?
Bệnh nhân nữ thực hiện chuyển phôi đông lạnh trong quá trình thụ tinh ống nghiệm tại Trung tâm Hỗ trợ sinh sản Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh ở độ tuổi từ 20 – 40, có 1 trong 2 đặc điểm sau:
Bệnh nhân có độ dày nội mạc tử cung < 7 mm ở ngày 11-12 của chu kỳ chuyển phôi đông lạnh sau khi đã sử dụng phác đồ chuẩn bị niêm mạc bằng thuốc theo phác đồ của bệnh viện.
Bệnh nhân bị thất bại làm tổ liên tiếp có nguyên nhân do niêm mạc tử cung mỏng.
Quy trình thực hiện bơm huyết tương giàu tiểu cầu tự thân tại Trung tâm Hỗ trợ sinh sản Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh được thực hiện như thế nào?
SƠ ĐỒ MÔ TẢ KHÁI QUÁT QUY TRÌNH ĐIỀU TRỊ
Link bài viết gốc: https://tamanhhospital.vn/ung-dung-huyet-tuong-giau-tieu-cau-trong-thu-tinh-ong-nghiem/
Phân tích tinh dịch là tiêu chuẩn vàng để đánh giá số lượng, khả năng vận động và khả năng sinh sản của tinh trùng. Phân tích tinh dịch sẽ giúp bác sĩ xác định khả năng sống sót của tinh trùng. Nó cũng sẽ kiểm tra xem số lượng tinh trùng hoặc rối loạn chức năng tinh trùng có gây vô sinh hay không. Phân tích tinh dịch đồ là một bài kiểm tra khả năng sinh sản của nam giới rất đơn giản, thu thập một số điểm dữ liệu chính, nhưng tập trung vào ba thuộc tính chính của tinh trùng:
Số lượng tinh trùng – nồng độ tinh trùng trên mỗi mL tinh dịch
Hình thái tinh trùng – hình dạng và sự xuất hiện của tinh trùng
Nếu xét nghiệm tinh dịch đồ cho kết quả bất thường, chuyên gia sinh sản của bạn có thể đề nghị xét nghiệm khả năng sinh sản bổ sung cho nam giới . Điều quan trọng cần nhớ là kết quả phân tích tinh dịch chỉ là thước đo các thông số tinh trùng của bạn tại một thời điểm cụ thể. Có rất nhiều cách để bạn tăng số lượng tinh trùng và cải thiện khả năng sinh sản nói chung
Các lựa chọn điều trị để cải thiện tỷ lệ mang thai với nam giới
Thụ tinh nhân tạo (IUI) – IUI, thường được gọi là thụ tinh nhân tạo, là một thủ thuật đơn giản trong đó tinh trùng được thu thập, cô đặc và gửi vào tử cung của người phụ nữ.
Thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) – IVF là tiêu chuẩn vàng của y học sinh sản và phương pháp hỗ trợ sinh sản hiệu quả nhất hiện có. Điều trị IVF mang lại tỷ lệ thành công cao nhất và thời gian mang thai nhanh nhất so với bất kỳ Công nghệ hỗ trợ sinh sản (ART) nào.
Tiêm tinh trùng vào bào tương – ICSI là một quy trình sinh sản tiên tiến được thực hiện trong phòng thí nghiệm phôi học trong quá trình điều trị IVF, trong đó một tinh trùng được tiêm trực tiếp vào trứng của người phụ nữ để tạo phôi được thụ tinh.
Trích xuất tinh hoàn – Quy trình trích xuất tinh trùng là quy trình phẫu thuật được thực hiện để lấy tinh trùng từ một số bộ phận trong đường sinh sản của nam giới khi không có tinh trùng trong tinh dịch.
Huyết tương giàu tiểu cầu tinh hoàn (PRP) – PRP là một sản phẩm máu cô đặc có chứa một tỷ lệ cao các phân tử sinh học có đặc tính chữa bệnh và tái tạo tự nhiên. PRP tinh hoàn là một kỹ thuật thử nghiệm và sáng tạo được sử dụng cho nam giới bị azoospermia (không có tinh trùng trong lần xuất tinh) với mục tiêu đạt được dù chỉ một số lượng nhỏ tinh trùng hoạt động trong lần xuất tinh, sau đó có thể được sử dụng cho IVF với ICSI. Tại CNY, Tiến sĩ Mariabelle Vardiales hiện đang tiến hành nghiên cứu để xác định hiệu quả của phương pháp điều trị, cho đến nay kết quả có vẻ đầy hứa hẹn.
Lược dịch từ: https://www.cnyfertility.com/increase-male-fertility/
Trong những năm gần đây, Huyết tương giàu tiểu cầu (PRP) đã được sử dụng cùng với các phương pháp hỗ trợ sinh sản phổ biến như Thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) để cải thiện chất lượng trứng, độ dày niêm mạc tử cung và khả năng tiếp nhận của nội mạc tử cung, chủ yếu trong điều trị thất bại làm tổ tái phát sau nhiều lần IVF. Mặc dù chưa có nguồn tài liệu khoa học phong phú cho thấy hiệu quả tổng thể, nhưng PRP đang được sử dụng ngày càng thường xuyên hơn do thành công lâm sàng của nó.
PRP là gì?
PRP là một sản phẩm máu cô đặc có chứa một tỷ lệ cao tiểu cầu (các phân tử sinh học có đặc tính chữa lành và tái tạo tự nhiên). Để hiểu rõ hơn, chúng ta hãy xem xét thành phần máu một cách tổng thể. Nhìn chung, máu toàn phần bao gồm 4 thành phần chính:
Huyết tương: thành phần lỏng của máu bao gồm chủ yếu là nước, muối hòa tan và protein. Nó chiếm hơn một nửa thể tích máu và cung cấp môi trường cho tất cả các thành phần khác trong máu được vận chuyển khắp cơ thể.
Tiểu cầu: là các tế bào đóng vai trò quan trọng quá trình đông máu và giải phóng các chất khác cũng như các yếu tố tăng trưởng.
Tế bào hồng cầu: là các tế bào tham gia vào quá trình trao đổi Oxy và Carbon Dioxide, mang oxy đến mô và loại bỏ carbon dioxide khỏi cơ thể.
Tế bào máu trắng: Còn được gọi là bạch cầu, là các tế bào chịu trách nhiệm chính cho hệ thống miễn dịch của cơ thể.
Theo Tiến sĩ Maribelle Verdiales, tiểu cầu trong PRP “chứa nhiều yếu tố tăng trưởng, giúp cơ thể chữa lành vết thương. Chúng đã được chứng minh là giúp đẩy nhanh quá trình lành bệnh và có khả năng chống lão hóa. . . đó là lý do tại sao nó đã được sử dụng trong 20 năm qua trong các lĩnh vực y học khác nhau.
PRP được chuẩn bị như thế nào?
PRP thường được sử dụng từ máu tự thân của bệnh nhân
Bước 1: Quy trình PRP bắt đầu bằng việc chuyên viên y tế lấy một mẫu máu từ bệnh nhân, tương tự như lấy máu trong xét nghiệm.
Bước 2: Máu được ly tâm (để tách các thành phần khác nhau của máu) trong khoảng 15 phút.
Bước 3: Kỹ thuật viên phòng thí nghiệm thu thập huyết tương (giàu tiểu cầu và không có thành phần máu khác) để chuẩn bị tiêm.
PRP được sử dụng như thế nào cho IVF và các phương pháp hỗ trợ sinh sản khác?
PRP được sử dụng kết hợp trong một số phương pháp hỗ trợ sinh sản bao gồm IUI và IVF để hỗ trợ và cải thiện số lượng, chất lượng trứng và cải thiện độ dày niêm mạc tử cung, tăng cường khả năng tiếp nhận nội mạc tử cung trong quá trình chuyển phôi. Phương pháp này thường được sử dụng ở những người đã trải qua nhiều chu kỳ IVF, có tiền sử thất bại làm tổ (RIF), một tình trạng trong đó nhiều lần chuyển IVF không mang thai mặc dù được chuyển phôi nhiều lần.
PRP cải thiện Số lượng & Chất lượng Trứng
PRP có thể được sử dụng để cải thiện chất lượng trứng và trẻ hóa buồng trứng.
Có hai cách/quy trình PRP có thể được sử dụng để cải thiện chất lượng và số lượng tế bào trứng:
PRP cho buồng trứng
Quy trình này liên quan đến việc tiêm trực tiếp 1-3 ml PRP vào buồng trứng. Thủ tục này được thực hiện dưới sự chăm sóc gây mê theo dõi của bác sĩ. Trong suốt quá trình, kim chứa PRP được dẫn hướng qua sóng siêu âm xuyên qua thành âm đạo và đi vào buồng trứng, nơi PRP sau đó sẽ được tiêm vào.
Lý tưởng nhất là quy trình này được thực hiện một, hai hoặc ba tháng TRƯỚC KHI bắt đầu thực hiện IVF. Nó có thể được thực hiện tại thời điểm lấy trứng , nhưng điều này sẽ chỉ có hiệu quả nếu người đó trải qua một chu kỳ kích thích IVF khác.
PRP cho sự phát triển của niêm mạc tử cung và khả năng tiếp nhận của nội mạc tử cung (PRP Intrauterine Wash)
PRP có thể được sử dụng để cải thiện khả năng tiếp nhận của nội mạc tử cung trước khi chuyển phôi. Điều này thường được thực hiện 48 giờ trước khi chuyển phôi dự kiến. Trong suốt quá trình, khoảng 3-5 ml được truyền vào tử cung bằng ống thông IUI. Bệnh nhân sẽ nghỉ ngơi trong 10 phút và sau đó được xuất viện để hoạt động bình thường hàng ngày.
Nếu nhằm mục đích phát triển niêm mạc (thường dành cho người có tiền sử không phát triển niêm mạc tử cung đầy đủ), việc rửa tử cung có thể được thực hiện theo quy trình. Lần truyền PRP đầu tiên sẽ được thực hiện khi kiểm tra lớp lót ban đầu và sau đó lặp lại 72 giờ sau nếu lớp lót vẫn không đủ.
Mặc dù có nhiều tài liệu khoa học hiện tại ủng hộ, PRP là một phương pháp điều trị tuyệt vời để xem xét cùng với chuyên gia sinh sản của bạn trong điều trị thất bại cấy ghép tái phát.
Trung tâm hỗ trợ Sinh sản Gruzia – Đức, là một trong những trung tâm tiên phong trong lĩnh vực Y học Sinh sản giới thiệu liệu pháp huyết tương giàu tiểu cầu, mang lại hy vọng cho nhiều phụ nữ hiếm muộn.
Phương pháp PRP là gì và nó sẽ làm tăng hiệu quả điều trị vô sinh đến mức nào?
Không nhiều phương pháp điều trị trong y học vừa có thể đạt được hiệu quả điều trị trong các lĩnh vực khác nhau, vừa sẵn có, an toàn và hiệu quả đồng đều. Liệu pháp huyết tương giàu tiểu cầu (PRP) là một trong những phương pháp điều trị cải tiến hiếm hoi đó trong y học hiện đại có tác dụng giảm đau, chống viêm, làm trẻ hóa và phục hồi các mô ở cấp độ tế bào. Liệu pháp PRP đã và đang được sử dụng rộng rãi trong các lĩnh vực thẩm mỹ, chỉnh hình, thần kinh, chấn thương, v.v. Ngoài ra PRP hiện đã được giới thiệu trong phụ khoa, y học sinh sản và tiết niệu.
Phương pháp PRP sử dụng huyết tương giàu tiểu cầu được sử dụng lần đầu tiên cách đây gần ba thập kỷ. Và trong vài năm gần đây, các bác sĩ đã bắt đầu sử dụng phương pháp này để điều trị các vấn đề về tiết niệu, sinh sản và phụ khoa. Phương pháp này không sử dụng thuốc, phẫu thuật xâm lấn hoặc thiết bị y tế đắt tiền. Huyết tương giàu tiểu cầu được lấy từ máu tĩnh mạch ngoại vi của chính bệnh nhân, sau khi ly tâm và xử lý thích hợp, huyết tương được sử dụng dưới dạng vi tiêm vào các cơ quan cần trợ giúp. Chứa nồng độ cao hormone, peptide, vitamin và các yếu tố tăng trưởng, liệu pháp PRP có khả năng kích thích tăng trưởng mô, chống viêm, giảm đau, đơn giản, giúp duy trì dự trữ cụ thể ở một vùng cụ thể của cơ thể.
Những ưu điểm của liệu pháp PRP trong y học sinh sản, phụ khoa và tiết niệu có thể được tóm tắt như sau: phạm vi sử dụng khá rộng, một số lựa chọn thay thế cho liệu pháp hormone, giá thành thấp, tác dụng phụ thấp, biến chứng và rủi ro nguy hiểm cực thấp. Điều đặc biệt hơn nữa liệu pháp PRP không mất nhiều thời gian. Do đặc tính giúp kích thích và “làm trẻ hóa” của PRP, chức năng của buồng trứng được tái kích hoạt, giúp cải thiện chất lượng trứng và do đó, cải thiện khả năng sinh sản của bệnh nhân.
PRP có thể đạt được thành công tương tự trong điều trị các bệnh phụ khoa mãn tính như chứng lichen xơ hóa, xói mòn cổ tử cung và bạch sản, viêm vòi trứng mãn tính và viêm nội mạc tử cung, và quan trọng hơn là vô sinh do hiếm nang.
Lược dịch từ: https://ivfggrc.com/platelet-rich-plasma-prp-therapy-an-innovation-in-reproductive-medicine-to-combat-infertility/
Ngày càng có nhiều nghiên cứu về ứng dụng huyết tương giàu tiểu cầu (platelet-rich plasma – PRP) trên bệnh nhân suy buồng trứng sớm (premature ovarian insufficiency – POI) được công bố với các kết quả đáng khích lệ. Như vậy, cơ sở lý luận và sinh lý của tiểu cầu trong hoạt động buồng trứng là như thế nào?
Nghiên cứu đầu tiên về việc ứng dụng huyết tương giàu tiểu cầu để trẻ hoá buồng trứng được công bố vào tháng 9 năm 2016. Nhóm nghiên cứu đến từ Athens đã mô tả về sự trẻ hoá buồng trứng và sự kích hoạt lại quá trình hình thành nang noãn ở 8 phụ nữ mãn kinh trên 5 năm. Các bệnh nhân này sau khi được truyền huyết tương giàu tiểu cầu tự thân đều có kinh lại sau khoảng 3 tháng, và tất cả đều được chọc hút noãn thành công. Tuy nhiên, gần đây nhất, vào năm 2021 một nghiên cứu ở Đài Loan trên 12 phụ nữ được chẩn đoán POI đã công bố kết quả. Độ tuổi các bệnh nhân trung bình khoảng 40 – 50 tuổi, vô kinh trong hơn một năm. Họ được tiêm vào buồng trứng hỗn hợp gồm huyết tương giàu tiểu cầu tự thân và FSH, sau đó siêu âm kiểm tra hàng tuần. Kết quả đạt được là 11 trong số 12 bệnh nhân có kinh trở lại sau 5 tuần, tuy nhiên hầu hết kinh không đều. Nhóm nhóm tác giả đề xuất rằng huyết tương giàu tiểu cầu kết hợp với gonadotrophin có thể giúp tăng xác suất có thai bằng noãn tự thân ở phụ nữ mãn kinh sớm. Báo cáo tiếp theo của nhóm công bố rằng nhóm bệnh trên đã chọc hút được tổng cộng 13 noãn trưởng thành, và được thực hiện tiêm tinh trùng vào bào tương noãn (intracytoplasmic insemination – ICSI). Hai bệnh nhân đã được chuyển phôi giai đoạn phân chia, trong đó một bệnh nhân đã có thai lâm sàng và có trẻ sinh sống.
Tác giả Atkinson đã mô tả rất chi tiết tất cả các nghiên cứu về trẻ hoá buồng trứng trong một bài tổng quan đăng trên tạp chí Human Reproduction năm 2021. Đáng chú ý là kết quả của nhóm nghiên cứu từ Athens báo cáo dữ liệu trên tổng số 120 bệnh nhân trong bốn nghiên cứu pilot về các bệnh nhân đáp ứng kém khi thực hiện IVF, các bệnh nhân POI, tiền mãn kinh và mãn kinh. Mặc dù kết quả có khác nhau giữa các nghiên cứu, nhưng nhóm tác giả đã khẳng định có sự cải thiện rõ rệt về tình trạng nội tiết và dự trữ buồng trứng của các bệnh nhân, cũng như cải thiện kết quả ICSI trên những bệnh nhân đáp ứng kém. Các nghiên cứu về vấn đề này ngày càng nhiều và có kết quả đáng khích lệ, điều này đặt ra sự cần thiết của một thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có nhóm chứng để xác nhận hiệu quả của liệu pháp PRP trên buồng trứng.
Các nhà khoa học cũng đặt ra nhiều câu hỏi, ví dụ như: Các kết quả có hợp lý về mặt sinh học không? Hay chúng ta có nên xem xét chúng một cách nghiêm túc không? Rosario và Anderson đã mô tả PRP là “sự điều chế huyết tương tự thân với nồng độ tiểu cầu cao bằng việc ly tâm một lượng lớn máu của chính bệnh nhân”, PRP có “vô số yếu tố tăng trưởng và cytokine do tiểu cầu tạo ra”. Các bằng chứng rõ ràng rằng tiểu cầu có thể giải phóng một loạt các cytokine, và tín hiệu cytokine được kích hoạt hiệu quả khi tương tác với noãn, tế bào hạt và tế bào vỏ của nang noãn”. Bất kỳ rối loạn chức năng nào trong hệ thống noãn, tế bào hạt và tế bào vỏ đều dẫn đến sự bất thường trong quá trình trưởng thành noãn, phóng noãn và tạo lập hoàng thể. Vì vậy, PRP có thể được xem là một liệu pháp dễ tiếp cận, được cá thể hóa, hiệu quả về chi phí với các yếu tố tiền viêm và tăng sinh, có thể kích thích sự hình thành nang noãn, trưởng thành noãn và phóng noãn. Rosario và Anderson cũng đã liệt kê liệu pháp PRP cùng với các phương pháp khác để kích hoạt các nang nguyên thủy còn sót lại ở phụ nữ POI, ví dụ: điều trị bằng tế bào gốc trung mô chiết xuất từ tủy xương, nhau thai và máu kinh. Tuy nhiên, họ cũng lưu ý rằng phần lớn dữ liệu lâm sàng cho đến nay được lấy từ các nghiên cứu về PRP.
Việc áp dụng PRP cần được lưu ý thận trọng. Các nghiên cứu được báo cáo cho đến nay là những nghiên cứu không có nhóm chứng và cũng chưa có mô tả chi tiết về cơ chế hoạt động của PRP như thế nào trên buồng trứng. Mặc dù PRP sử dụng nguồn tiểu cầu tự thân nhưng vẫn cần thận trọng khi áp dụng và cần phải nghiên cứu sâu hơn ở cấp độ tế bào. Các tác giả cũng cảnh báo rằng sự mất điều hòa của các bước đầu tiên trong quá trình trưởng thành noãn và phát triển phôi có thể ảnh hưởng quá trình phát triển của bào thai, từ đó làm tăng nguy cơ mắc bệnh của trẻ sinh ra.
Quay trở lại năm 2016 với lần đầu tiên vấn đề trẻ hóa buồng trứng được đề cập, các tiêu đề báo chí thời gian đó đều xoay quanh “sự kết thúc của mãn kinh”. Trước đó, vào năm 2004, Jonathan Tilly cũng có suy đoán về “tế bào tiền thân của noãn”. Một bài báo theo sau đã mô tả về sự cải thiện kết quả IVF ở những bệnh nhân tiên lượng kém sau khi được sử dụng ty thể tự thân có nguồn gốc từ các tế bào tiền thân noãn. Khám phá của Tilly cũng từng được coi là sự sụp đổ của mãn kinh. Tuy nhiên khái niệm này vẫn chưa được chấp nhận, vì cần phải có nhiều nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng có nhóm chứng chất lượng ủng hộ cho phương pháp này.
Tóm lại PRP, cho đến nay có vẻ như là một hiện tượng. Tuy nhiên, để có thể chứng minh được vai trò của mình, phương pháp này cần thêm nhiều bằng chứng từ các nghiên cứu có độ tin cậy cao.
Điều trị hỗ trợ sinh sản hẳn đã gây nên nỗi ám ảnh với nhiều người, bởi chúng ta chỉ quen với việc điều trị bằng cách uống thuốc viên một cách dơn giản. Vì vậy khi đối mặt với những kĩ thuật dùng kim tiêm, kim chọc, siêu âm đầu dò âm đạo có thể diễn ra hằng ngày vào thời gian rụng trứng, có thể khiến vài người cảm thấy như đang tham gia một thí nghiệm khoa học hơn là sắp được làm cha mẹ. Và trong một số trường hợp phải tiến hành IVF nhiều lần vì gặp thất bại, dẫn đến ảnh hưởng đến sức khỏe thể chất, tinh thần và cả về mặt tài chính cho bệnh nhân.
Trong những năm gần đây, liệu pháp huyết tương giàu tiểu cầu (PRP) đã được thêm vào danh sách các phương pháp điều trị liền kề mà một số bệnh nhân tìm kiếm với hy vọng tăng tỷ lệ thành công với IVF.
Điều trị với huyết tương giàu tiểu cầu là gì?
Phương pháp điều trị với PRP sử dụng một lượng máu nhỏ từ bệnh nhân, cách lấy tương tự trong xét nghiệm và cho quay ly tâm ở tốc độ cao trong máy ly tâm. Quá trình này giúp phân tách các thành phần khác nhau của máu, tạo ra phần huyết tương với nồng độ tiểu cầu cao.
Chúng ta thường biết tiểu cầu gắn liền với tiến trình đông máu, nhưng chúng còn là một phần của hệ thống sửa chữa cơ thể và một phần không thể thiếu của quá trình chữa lành vết thương. Vì PRP có nguồn gốc từ chính máu của bệnh nhân, nên rủi ro điều trị là cực kì thấp so với các phương pháp điều trị khác như thuốc hoặc phẫu thuật.
Máu của bệnh nhân được quay trong máy ly tâm để thu được huyết tương giàu tiểu cầu
PRP ban đầu chưa được trong hỗ trợ sinh sản, và hiện tại chỉ có một số ít đơn vị sử dụng liệu pháp này cho hỗ trợ sinh sản.
“Thực ra nó đã được sử dụng trong da liễu, thẩm mỹ, chỉnh hình và gần đây PRP đã được thử nghiệm trong các phương pháp điều trị sinh sản” Tiến sĩ Molly Quinn, nhà nội tiết sinh sản tại HRC Fertility California, chia sẻ với HuffPost.
Các bác sĩ có thể dùng một loạt các mũi tiêm chứa PRP để hỗ trợ chữa lành các chấn thương dây chằn chéo trước hoặc sau phẫu thuật. Ngoài ra, PRP cũng đã được sử dụng trong các phương pháp điều trị cấy ghép tóc, thúc đẩy sự phát triển của nang tóc.
Đối với điều trị vô sinh, các bác sĩ đã thử tiêm PRP ở hai vị trí khác nhau, thường là trước hoặc trong chu kỳ IVF. Đầu tiên là vào tử cung, để hỗ trợ sự phát triển của niêm mạc nội mạc tử cung và làm cho nó dễ tiếp nhận phôi hơn; và thứ hai là vào buồng trứng, để hỗ trợ sự phát triển của các nang trứng khỏe mạnh hơn có khả năng tạo ra trứng mà cuối cùng có thể được thụ tinh để tạo ra phôi khỏe mạnh.
Nếu bệnh nhân đã từng thất bại hoặc bị hủy các chu trình IVF trước đây do nội mạc tử cung không đủ phát triển (lớp niêm mạc tử cung không phát triển đủ dày) hoặc đáp ứng kém với thuốc kích thích nang trứng (buồng trứng không sản xuất nhiều trứng), một số bác sĩ có thể đề xuất sử dụng PRP.
Khi được tiêm vào buồng trứng, PRP được can thiệp vào những tháng trước khi điều trị IVF. Khi được tiêm vào tử cung, PRP được can thiệp ngay trong quá trình điều trị IVF, thường là ngay trước khi phôi được chuyển vào tử cung.
Là một trong những trung tâm hỗ trợ sinh sản đầu tiên được cấp phép chính thức trong việc nghiên cứu và ứng dụng huyết tương giàu tiểu cầu tự thân để cải thiện độ dày của niêm mạc tử cung, tăng tỷ lệ thành công trong thụ tinh ống nghiệm; IVF Bưu Điện kỳ vọng sẽ hiện thực hóa ước mơ con của rất nhiều bệnh nhân vô sinh hiếm muộn sẽ sớm trở thành sự thật…
Niêm mạc tử cung là gì?
Niêm mạc tử cung – hay còn được gọi là nội mạc tử cung – là lớp phủ toàn bộ bề mặt phía trong của tử cung, có cấu tạo gồm 2 phần là lớp đáy và lớp nông. Lớp đáy – hay nội mạc căn bản – là các tế bào mô trụ tuyến và mô đêm, không chịu nhiều biến đổi của chu kỳ kinh nguyệt. Lớp nông – hay nội mạc tuyến – chịu sự tác động lớn trong thời kỳ kinh nguyệt.
Niêm mạc tử cung đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với quá trình thụ thai và mang thai ở người phụ nữ. Niêm mạc tử cung quá dày hoặc quá mỏng có thể là nguyên nhân gây khó thụ thai, hiếm muộn ở nữ giới.
Lớp niêm mạc tử cung dưới sự tác động của hormone sinh dục nữ sẽ trở nên dày lên tùy theo từng thời điểm cụ thể trong tháng, phụ thuộc vào chu kỳ kinh nguyệt của người phụ nữ.
Giai đoạn nội mạc tử cung sẵn sàng tiếp nhận phôi được gọi là “cửa sổ làm tổ” và kéo dài khoảng 3-4 ngày. Nội mạc tử cung tăng sinh trở nên dày hơn, tái phân bố mạch máu và các tuyến cuộn xoắn, tăng tiết dịch. Những thay đổi này đạt cực đại khoảng 7 ngày sau phóng noãn. Nếu không có thai, những tế bào này sẽ bong ra trong mỗi kỳ kinh nguyệt.
Ảnh hưởng của niêm mạc tử cung mỏng tới khả năng mang thai
Để có được một chu kỳ thụ tinh ống nghiệm thành công, bên cạnh chất lượng của phôi thì việc chuẩn bị các điều kiện của người mẹ để đảm bảo việc làm tổ, phát triển phôi là hết sức quan trọng. Một trong những điều kiện này là yêu cầu độ dày niêm mạc tử cung phù hợp. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng nếu niêm mạc tử cung tại thời điểm chuyển phôi mỏng hơn 7mm thì tỷ lệ thất bại sẽ rất cao. Ngay cả khi thai nhi đã làm tổ thì khả năng giữ lại thai trong tử cung trong suốt quá trình mang thai vẫn rất khó khăn bởi lớp niêm mạc tử cung mỏng quá mức sẽ không đủ khả năng giữ phôi thai lại. Hậu quả là dẫn tới nguy cơ trạng sảy thai hoặc thai lưu.
Niêm mạc tử cung mỏng là do quá trình phát triển của niêm mạc tử cung bị suy giảm, có thể do nhiều yếu tố mà phổ biến là do viêm nhiễm hay do hậu quả của quá trình điều trị liên quan đến tử cung. Đó có thể do hậu quả của phẫu thuật như nạo phá thai nhiều lần, cắt bỏ polyp, phẫu thuật nội soi tử cung cũng như liệu pháp sử dụng thuốc không hợp lý, hoặc cũng có thể do cấu trúc niêm mạc tử cung của bệnh nhân bị mỏng do yếu tố bẩm sinh.
Chính vì vậy, để cải thiện độ dày của niêm mạc tử cung, nhiều liệu pháp đã được áp dụng tại các đơn vị Hỗ trợ sinh sản tại Việt Nam để giúp niêm mạc tử cung đạt độ dày “lý tưởng” như theo dõi chu kỳ tự nhiên, sử dụng thuốc nội tiết ngoại sinh, kích thích buồng trứng…Tuy nhiên, vẫn có một số trường hợp niêm mạc tử cung không đáp ứng hoặc đáp ứng kém với các liệu pháp trên dẫn tới niêm mạc tử cung phát triển không đầy đủ. Chính vì vậy, việc phát triển các kỹ thuật mới, liệu pháp mới để điều trị hiệu quả cho những bệnh nhân này là hết sức cần thiết.
Ths.Bs. Vương Vũ Việt Hà – PGĐ Trung tâm hỗ trợ sinh sản bệnh viện Bưu Điện đang đọc kết quả cho người bệnh
Huyết tương giàu tiểu cầu tự thân – vũ khí mới giúp cải thiện độ dày niêm mạc tử cung
Theo định nghĩa, huyết tương giàu tiểu cầu là huyết tương có lượng tiểu cầu nhiều gấp 2-10 lần so với huyết tương bình thường và có nhiều yếu tố tăng trưởng và cytokine. Huyết tương giàu tiểu cầu thu được thông qua quá trình lấy máu tự thân, xử lý mẫu máu, quay ly tâm và thu được. PRP không chỉ thúc đẩy việc loại bỏ các mô bị thoái hóa và hoại tử, mà còn kích thích sự tái tạo mô và lành hóa.
Việc sử dụng huyết tương giàu tiểu cầu (PRP) tự thân để điều trị niêm mạc tử cung mỏng đã được thử nghiệm lâm sàng thành công ở nhiều quốc gia.
Huyết tương giàu tiểu cầu (PRP) tự thân là chế phẩm sinh học tương thích nhất với cơ thể người bệnh và tránh được tình trạng thải ghép
Trường hợp nào nên sử dụng kỹ thuật bơm huyết tương giàu tiểu cầu?
– Bệnh nhân có độ dày nội mạc tử cung < 7 mm của chu kỳ chuyển phôi đông lạnh sau khi đã sử dụng phác đồ chuẩn bị niêm mạc bằng thuốc theo phác đồ của bệnh viện.
– Bệnh nhân bị thất bại làm tổ liên tiếp có nguyên nhân do niêm mạc tử cung mỏng.
Link bài viết gốc: https://ivfbuudien.vn/bom-huyet-tuong-giau-tieu-cau/
Bài viết bởi ThS. Nguyễn Đắc Tú, Trưởng nhóm Đánh giá Chất lượng Sản phẩm, Trung tâm Công nghệ cao Vinmec và ThS. Phạm Thị Thanh, Chuyên viên Đánh giá Chất lượng Sản phẩm, Trung tâm Công nghệ cao Vinmec
Huyết tương giàu tiểu cầu (PRP) là sản phẩm của máu tự thân chứa hàm lượng lớn các nhân tố tăng trưởng, các cytokine kích thích quá trình tăng sinh, hình thành mạch. Chúng được được ứng dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực y học khác nhau. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng kết hợp sử dụng PRP cùng với các phương pháp hỗ trợ sinh sản (IVF, ICSI, ET) có hiệu quả đáng kể trong cải thiện chất lượng của trứng, độ dày và khả năng tiếp nhận của nội mạc tử cung trong điều trị thất bại làm tổ liên tiếp.
Kể từ khi ra đời, kỹ thuật chuyển phôi (ET) phát triển đã giúp tăng tỉ lệ thụ thai và tỉ lệ sinh cho các cặp vợ chồng vô sinh. Tuy nhiên, vẫn có một lượng lớn bệnh nhân được điều trị thất bại và không có khả năng mang thai. Nguyên nhân lớn là do phôi được chuyển làm tổ thất bại trong tử cung, thất bại có thể không liên tiếp hoặc liên tiếp. Trong đó, thất bại làm tổ liên tiếp trong quá trình IVF là tình trạng không có thai sau 2 chu kỳ chuyển phôi liên tiếp (không kể phôi tươi hay phôi trữ lạnh) và với tổng số phôi chuyển chất lượng tốt từ 4 trở lên. Thất bại làm tổ liên tiếp nhiều lần trong IVF đang là một trong những thách thức lớn đối với quá trình hỗ trợ sinh sản.
Quá trình cấy ghép phôi thành công phụ thuộc vào 2 yếu tố quan trọng: phôi khỏe mạnh và khả năng tiếp nhận của nội mạc tử cung. Một số phương pháp được sử dụng để hỗ trợ cho các trường hợp làm tổ thất bại nhiều lần như: chuyển phôi nang, hỗ trợ phôi thoát màng, nội soi buồng tử cung, tạo vết xước ở nội mạc tử cung và liệu pháp miễn dịch. Gần đây, truyền huyết tương giàu tiểu cầu được sử dụng như một liệu pháp có tiềm năng thúc đẩy sự phát triển, tăng độ dày và cải thiện chức năng của nội mạc tử cung làm tăng khả năng làm tổ của phôi.
Quá trình cấy ghép phôi thành công phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau
Huyết tương giàu tiểu cầu (Platelet-rich plasma – PRP) là sản phẩm của máu tự thân chứa hàm lượng lớn các nhân tố tăng trưởng, các cytokine kích thích quá trình tăng sinh, hình thành mạch. PRP được ứng dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực y học khác nhau: chữa lành vết thương, nhãn khoa, chấn thương chỉnh hình, phẫu thuật, thẩm mỹ, điều trị đau bằng huyết tương giàu tiểu cầu PRP … Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng kết hợp sử dụng PRP cùng với các phương pháp hỗ trợ sinh sản (IVF, ICSI, ET) có hiệu quả đáng kể trong cải thiện chất lượng của trứng, độ dày và khả năng tiếp nhận của nội mạc tử cung trong điều trị thất bại làm tổ liên tiếp.
Năm 2015, báo cáo đầu tiên của Chang và cộng sự [2] về hiệu quả tích cực của PRP cho những bệnh nhân thực hiện thụ tinh nhân tạo IVF nhiều lần nhưng thất bại do nội mạc tử cung mỏng. Những nghiên cứu sau đó cũng chỉ ra rằng PRP thúc đẩy độ dày và khả năng tiếp nhận của nội mạc tử cung, từ đó tăng tỉ lệ thụ thai [3-7]. Một số nghiên cứu gần đây cũng cho kết quả tương tự về hiệu quả PRP trong điều trị nội mạc tử cung mỏng [8, 9]. Bên cạnh đó, các nghiên cứu cũng chỉ ra rằng liệu pháp PRP cải thiện quá trình cấy ghép, khả năng thụ thai và tỉ lệ sinh cho những bệnh nhân có nội mạc tử cung mỏng.
Năm 2019, Sfakianoudis và cộng sự [10] đã báo cáo về hiệu quả của PRP trên bệnh nhân nữ 35 tuổi bị suy thoái buồng trứng, nội mạc tử cung mỏng và bị viêm mãn tính (chronic endometritis), nhiều lần thất bại khi thực hiện IVF và đã từng sảy thai. Sau khi truyền PRP vào khoang tử cung, cùng với sự hỗ trợ của IVF, bệnh nhân đã mang thai đôi và sinh con khỏe mạnh.
Với những số liệu thử nghiệm lâm sàng được báo cáo, liệu pháp huyết tương giàu tiểu cầu có thể trở thành một kỹ thuật mang tới nhiều bước đột phá trong y học sinh sản, hỗ trợ điều trị nội mạc tử cung mỏng, buồng trứng thoái hóa và điều trị thất bại làm tổ liên tiếp.
Liệu pháp huyết tương giàu tiểu cầu có thể trở thành đột phá trong y học sinh sản
Link bài viết gốc: https://vinmec.com/vi/tin-tuc/thong-tin-suc-khoe/te-bao-goc-cong-nghe-gen/ung-dung-huyet-tuong-giau-tieu-cau-trong-dieu-tri-benh-nhan-bai-lam-lien-tiep/
Mãn kinh sớm và suy giảm chức năng buồng trứng là điều mà không người phụ nữ nào mong muốn, bởi nó lấy đi khả năng sinh sản và ảnh hưởng cả tâm sinh lý của họ. Tin vui là các nhà khoa học Hy Lạp vừa giúp 2 phụ nữ từng bị kết luận vô sinh thụ thai thành công, sau khi áp dụng kỹ thuật tiêm huyết tương để “trẻ hóa buồng trứng”.
Theo báo cáo đăng trên tạp chí khoa học New Scientist, các chuyên gia tại Bệnh viện Genesis Athens đã điều trị thử nghiệm kỹ thuật trẻ hóa buồng trứng cho hơn 180 phụ nữ. Trong số này, nhiều người hiếm muộn vì tổn thương niêm mạc tử cung do di chứng bệnh tật, một số bị mãn kinh sớm (từ 34 đến 51 tuổi) và số khác hy vọng liệu pháp trẻ hóa buồng trứng có thể giúp họ kiểm soát các triệu chứng khó chịu của thời kỳ mãn kinh, như bốc hỏa và rụng tóc.
Nhờ điều trị bằng liệu pháp trẻ hóa buồng trứng của Bệnh viện Genesis Athens, cả 2 thai phụ sau đó đều có kết quả thụ thai thành công.
Nghiên cứu đột phá của nhóm chuyên gia Hy Lạp bao gồm rút máu từ bệnh nhân và cho vào máy ly tâm để tách huyết tương giàu tiểu cầu (PRP) thành phần trong máu thúc đẩy việc sản sinh tế bào mới khỏe mạnh, thay thế tế bào hư và già cỗi. Được biết, PRP từng được giới y tế thể thao dùng để kích thích sự phát triển của các mô và mạch máu tại những vùng xương và cơ bị tổn thương. Tận dụng lợi ích chữa lành này, nhóm nghiên cứu do Tiến sĩ Kostantinos Sfakianoudis dẫn đầu đã dùng huyết tương của chính bệnh nhân để tiêm trực tiếp vào buồng trứng và tử cung nhằm phục hồi hệ sinh sản bị tổn thương của họ. Đây được xem là nghiên cứu đầu tiên kiểm tra tác dụng của PRP đối với buồng trứng.
Trưởng nhóm Sfakianoudis đã vui mừng tuyên bố liệu pháp tiêm huyết tương để trẻ hóa buồng trứng đã giúp 2 phụ nữ mang thai thành công. Thai phụ thứ nhất là một phụ nữ 40 tuổi người Đức, đang mang thai ở tháng thứ 6. Người này đã cố sinh thêm con thứ 2 trong hơn 6 năm qua và từng trải qua 6 lần thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) bất thành, bác sĩ khuyên nên dùng trứng hiến tặng. Nhưng sau khi điều trị ở Bệnh viện Genesis Athens và trở về Đức làm IVF, 2 trong 3 trứng tạo ra từ buồng trứng của cô được xác định đủ điều kiện thụ tinh và một phôi thai đã bám thành công vào tử cung, phát triển thành thai nhi khỏe mạnh.
Người thứ hai là một phụ nữ 39 tuổi người Hà Lan, bị gián đoạn kinh nguyệt đã 4 năm và bắt đầu có dấu hiệu mãn kinh. Do muốn tái hôn và sinh con, nên cô đến nhờ các nhà khoa học Hy Lạp điều trị từ tháng 12-2016 và bắt đầu hành kinh trở lại chỉ sau một tháng tiêm PRP. Sau khi trở về Hà Lan vài tháng và làm IVF mà không dùng biện pháp bổ sung hoóc-môn, người phụ nữ này đã được thụ thai thành công. Tuy nhiên, cô không may bị sẩy thai trong tam cá nguyệt thứ nhất. Đây là rủi ro thông thường bởi phụ nữ trong độ tuổi 35-39 có 20% nguy cơ bị sẩy thai trong 3 tháng đầu thai kỳ. Mặc dù người phụ nữ này chưa sinh con thành công, song Tiến sĩ Sfakianoudis khẳng định việc cô hành kinh trở lại và đậu thai là kết quả rất đáng khích lệ, đồng thời mong muốn cô sẽ thử tiến hành IVF lần nữa.
Hiện tại, nhóm nghiên cứu vẫn chưa tìm ra cơ chế chính xác PRP đã giúp trẻ hóa cơ quan sinh sản của phụ nữ như thế nào, nhưng theo họ, thành phần chiết xuất từ máu có lẽ đã giúp hồi phục các tế bào gốc trong buồng trứng, kích thích cơ quan này sản xuất nhiều trứng hơn. Ngoài ra, một khả năng khác là phương pháp tiêm huyết tương đã khôi phục nguồn cung cấp máu cho buồng trứng, từ đó cũng khôi phục khu vực sản xuất trứng.
Nếu phương pháp trẻ hóa buồng trứng bằng PRP của các nhà khoa học Hy Lạp được chứng thực hiệu quả, liệu pháp này hứa hẹn mang lại hy vọng cho phụ nữ lớn tuổi hoặc mãn kinh sớm muốn sinh con bằng trứng của chính họ. Ngoài ra, nó cũng sẽ mang đến cơ hội làm mẹ cho những phụ nữ không kịp đông lạnh mô buồng trứng khỏe mạnh trước khi tiến hành hóa trị (liệu pháp chữa ung thư thường hủy hoại cơ quan sinh sản quan trọng này).
Theo New Scientist, Daily Mail
Link bài viết gốc: https://baocantho.com.vn/chua-vo-sinh-thanh-cong-cho-phu-nu-man-kinh-som-va-suy-buong-trung-a84230.html